Chủ Nhật, 13 tháng 10, 2013

Giáo dục ở Nhật bản thành công thế nào?

giáo dục ở nhật bản, giao duc nhat ban, giáo dục nhật bản, giao duc nhat, giáo dục nhật, giáo dục ở nhật, giáo dục ở nhật bản, giáo dục đại học ở nhật, giáo dục đại học ở nhật bản, giao duc dai hoc o nhat, giao duc dai hoc o nhat ban, Giáo dục ở nhật, giao duc o nhat, giao duc o nhat ban, giáo dục ở nhật bản, giao duc nhat ban, giáo dục nhật bản,

nhat banNhật bản là quốc gia khan hiến về nguồn tài nguyên, và là nơi có nhiều đảo nhất khu vực Đông Nam Á, khi nền khoa học chưa phát triển, Nhật bản chỉ dựa vào ngành nông nghiệp là chủ yếu. Những năm 90 đến nay, Nhật bản đã phát triển vượt bậc nhờ sự tập trung vào ngành công nghệ và luôn đứng vững trên thế giới về nền kinh tế nhiều năm qua. Bên cạnh đó ngành giáo dục đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo ra những con người tìm năng của quốc gia.
Những thành công của nền giáo dục Nhật bản
Thành công từ việc hợp tác quốc tế
nhật bảnGiữa những năm 1947 và 1950, hệ thống giáo dục Nhật Bản được thay đổi thành hệ thống 6-3-3-4 trên toàn quốc (6 năm cho tiểu học, 3 năm cho trung học cơ sở, 3 năm cho trung học phổ thông và 4 năm cho cao đẳng, đại học), là chuẩn mực giáo dục ở Nhật Bản.
Thập niên 90, một báo cáo nhan đề “Một quốc gia lâm nguy” được công bố ở Mỹ nêu bật nhu cầu cải cách giáo dục tại Nhật Bản. Lãnh đạo hai nước Mỹ và Nhật tán thành rằng cần phải có một cuộc nghiên cứu, so sánh nền giáo dục giữa hai nước. Sau đo, một cuộc họp thương lượng đầu tiên được tổ chức ở Kyoto có 24 nước tham dự, kết quả: Có 2 bản báo cáo được công bố. Trong một bản, các nhà nghiên cứu Mỹ báo cáo về những điểm mạnh và điểm yếu của Nhật Bản, còn các bản báo cáo kia, các nhà nghiên cứu Nhật Bản cũng tiến hành tương tự như vậy đối với nền giáo dục của Mỹ.

Từ những tiêu chuẩn ngặt nghèo...
nhat banỞ Nhật, hầu hết các trường tiểu học đều là trường công, chỉ có khoảng 0,7 trường tiểu học là trường tư. Các trường trung học cơ sở cũng vậy, có đến 97% là trường công và chỉ có 3% là trường tư. Có khoảng 27% trường trung học phổ thông là trường tư. Học sinh ở khu vực nào phải theo học ở trường khu vực đấy, muốn học khác tuyến cũng không được. Nhật Bản đang cố gắng tiêu chuẩn hoá trình độ giáo viên trên toàn quốc để đảm bảo chất lượng giảng dạy. ở Nhật Bản có 50 huyện, mỗi huyện chịu trách nhiệm tuyển giáo viên cho huyện mình. Một giáo viên năm nay có thể phụ trách dạy lớp 1, nhưng năm sau có thể dạy lớp 3 hay lớp 5. Cũng thường xuyên quay vòng việc dạy cũng như chuyển dạy từ trường này sang trường khác.

Với những nghiên cứu sâu rộng...
nhat banTổ chức đánh giá giáo dục quốc tế đã tiến hành hai cuộc khảo sát so sánh chất lượng học tập của sinh viên trên toàn thế giới. Kết quả là ở Nhật Bản, sự khác biệt về năng lực và thành tích học tập của sinh viên giữa các trường là tối thiểu, có lẽ là ít nhất trên thế giới. Hầu hết sinh viên, học sinh Nhật Bản đều làm chủ chương trình học.
Các chuyên gia giáo dục Nhật bản đã có nhiều dự án nghiên cứu về tình hình kinh tế – xã hội cũng như văn hoá lịch sử, lối sông người dân để tìm ra chương trình giáo dục phù hợp nhất cho mọi cấp. Người Nhật rất “dị ứng” với việc đem hệ thống giáo dục nước khác áp dụng vào nước mình. Có thể đó cũng là một yếu tố đưa hệ thống giáo dục Nhật Bản có được nhiều chuẩn mực riêng.

Đến “truyền thống” học tập...
nhật bảnVề sách giáo khoa, các công ty xuất bản liên hệ với các giáo sư và giảng viên các trường đại học chuyên về môn học nào đó để chuẩn bị sách giáo khoa. Những cuốn sách này sẽ trình lên Bộ Giáo dục thông qua. Tiêu chuẩn thông qua dựa trên các khoá học do Bộ tổ chức. Chỉ có những cuốn sách nào đáp ứng được tiêu chuẩn mới được đưa vào thử nghiệm sử dụng ở trong nhà trường. Bộ có một bộ phận chuyên trách tuyển chọn sách giáo khoa cho từng cấp học, khá nghiêm túc. Nếu thanh tra giáo dục không thông qua cuốn sách nào đó, thì cuốn sách đó không được phép sử dụng trong nhà trường. Tuy nhiên, vẫn có sự khác biệt khá lớn về thái độ củat người phương Tây với người Nhật đối với sách giáo khoa. Hầu hết người Nhật không nghĩ sách giáo khoa chỉ là công cụ, mà chúng còn hàm chứa truyền thống, nhưng vấn đề là làm thế nào tự thoát ra khỏi những thái độ truyền thống đối với sách giáo khoa, vì sách giáo khoa mà chỉ mang nội dung truyền thống sẽ làm cho học sinh sợ khi buộc phải nhớ tất cả những thông tin đó. Nếu không sửa đổi sẽ không thể cải thiện giáo dục, đặc biệt những môn học xã hội. Ngày nay, những người biên tập sách giáo khoa đã có một quan điểm rõ ràng: Chính học sinh, sinh viên là những người sử dụng thật sự những cuốn sách giáo khoa đó, còn giáo viên chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập của học sinh mà thôi.
giáo dục đại học ở nhật, giáo dục đại học ở nhật bản, giao duc dai hoc o nhat, giao duc dai hoc o nhat ban, Giáo dục ở nhật, giao duc o nhat, giao duc o nhat ban, giáo dục ở nhật bản, giao duc nhat ban, giáo dục nhật bản, giao duc nhat, giáo dục nhật, giáo dục ở nhật, giáo dục ở nhật bản

Đại học ở Nhật bản phát triển qua các thời kỳ

đại học nhật bản, đại học ở nhật, dai hoc o nhat, đại học ở nhật bản, dai hoc tai nhat, đại học tại nhật, đại học tại nhât bản, dai hoc o nhat ban, dai hoc tai nhat ban, học đại học nhật bản, hoc dai hoc nhat ban, hoc dai hoc o nhat, hoc dai hoc o nhat ban, học đại học ở nhật, học đại học ở nhật bản, hoc dai hoc tai nhat, học đại học tại nhật, 
dai hoc nhat banNhật bản được xem như một xã hội văn minh, nó được phát triển qua các thời kỳ, thế nhưng chiến tranh và thuộc địa vẫn không làm ảnh hưởng đến sự phát triển của họ, những giai đoạn phát triển được đánh giá như một móc son sáng chói cho nền khoa học kỹ thuật nước này. Sau đây là những giai đoạn phát triển của hệ thống giáo dục đại học tại Nhật.
  
Bốn giai đoạn phát triển của đại học Nhật bản
Bốn giai đoạn phát triển hệ thống giáo dục đại học của Nhật cũng có thể cung cấp cho chúng ta một vài bài học và kinh nghiệm đáng tham khảo. Đáng tham khảo bởi vì Nhật cũng xuất phát từ một nước nông nghiệp, và cũng kinh qua một thời gian chiến tranh khốc liệt.

Giai đoạn 1: Tây phương hóa.
đại học nhật bảnĐược khởi xướng từ thời Minh Trị Thiên Hoàng từ năm 1868. Trong giai đoạn này, Nhật cảm thấy bị đe dọa bởi các thế lực quân sự và kỹ nghệ của thế giới phương Tây, nhưng họ thấy đó là một cơ hội để tái cấu trúc hệ thống chính trị, xã hội và kinh tế, chuẩn bị cho sự nghiệp kỹ nghệ hóa đất nước. Minh Trị nhận thức rằng Nhật cần phải nắm lấy và làm chủ những “know-how” của phương Tây.

Năm 1877, Đại học Tokyo được thành lập (trước đây trường này chỉ là một trường cao đẳng dạy ngoại ngữ và y học cổ truyền). Đại học Tokyo lúc đó có 4 khoa: luật khoa, khoa học, văn khoa và y khoa. Trong giai đoạn phát triển này, phần lớn giáo sư là người ngoại quốc. Trong số 36 giáo sư, có đến 23 người là giáo sư từ Anh, Pháp, Đức và Mỹ. Ngay cả những giáo sư người Nhật cũng là những người từng tốt nghiệp từ các nước vừa kể.

Trong thời gian 20 năm sau đó, có đến 400 giáo sư từ các nước phương Tây được Bộ Giáo dục Nhật mướn (hay mời) dạy tại các đại học và cao đẳng trên khắp nước Nhật. Không chỉ trong ngành giáo dục, Nhật còn mướn các chuyên gia phương Tây để làm việc và hướng dẫn trong các ngành như khai thác hầm mỏ, đường sắt, điện lực, điện tín, hãng xưởng…

Cùng lúc với sự hình thành của Đại học Tokyo, Nhật tích cực gửi sinh viên sang các nước phương Tây theo học tại các trường danh tiếng trên thế giới. Những “hạt nhân” đó sau này nắm giữ những chức vụ quan trọng trong hệ thống đại học và chính quyền.

Giai đoạn 2: Cách mạng kỹ nghệ và đại học.
đại học nhật bảnGiai đoạn này được đánh dấu qua việc thiết lập hệ thống “đại học vương triều” (Imperial University System), và định hướng rõ ràng rằng giáo dục phải phục vụ cho các mục tiêu của nhà nước. Năm 1890, (Đại học) Tokyo Imperial University được cho phép thành lập thêm một khoa mới: đó là khoa nông học. Năm 1897, (Đại học) Kyoto Imperial University được thành lập theo mô hình của Đại học Tokyo. Kể từ đó, một số đại học trong hệ thống vương triều được thành lập, như Tohoku Imperial University (1907), Kyushu Imperial University (1910). Cả hai trường mới này chuyên về khoa học ứng dụng.

Thời gian mà các đại học vương triều ra đời trùng hợp với giai đoạn cách mạng kỹ nghệ ở Nhật. Cuộc cách mạng kỹ nghệ chủ yếu xảy ra ở ngành dệt và kỹ nghệ nhẹ, và chính các ngành “nhẹ” này đã là những viên gạch lót đường để Nhật trở thành một cường quốc kỹ nghệ sau này. Các đại học vương triều có nhiệm vụ phải đào tạo các kỹ sư và khoa học gia, chuyên gia để đáp ứng nhu cầu của cuộc cách mạng kỹ nghệ. Mặc dù ý thức được rằng đại học còn phải đào tạo các nhà nghiên cứu, nhưng trong giai đoạn mà công nghệ của Nhật còn quá thô sơ, họ chủ yếu nhắm vào việc đào tạo chuyên gia lành nghề, và việc đào tạo chuyên gia nghiên cứu chỉ tập trung ở các đại học lớn như Tokyo và Kyoto. Song song với sự ra đời của các đại học vương triều, Nhật còn thành lập một số trường cao đẳng kỹ thuật (technical college). Các trường cao đẳng có nhiệm vụ giới thiệu các công nghệ của thế giới phương Tây nhưng có ứng dụng thực tế vào điều kiện phát triển ở Nhật. Đến năm 1910, Nhật đã có 17 trường cao đẳng kỹ thuật, và mỗi năm huấn luyện được hàng ngàn chuyên viên kỹ thuật.

Trong thời kỳ này, Nhật còn có một số đại học tư thục, tuy lúc đó các trường này chưa được công nhận là “đại học” mà chỉ là những “trường đặc biệt” (special schools). Mãi đến năm 1918 các trường đại học tư thục mới được chính thức công nhận là đại học. Sau này, một số trường tư thục đó trở thành những đại học danh tiếng. Chẳng hạn như Đại học Keio được thành lập năm 1868 (do gia đình của Fukuzawa Yukichi thành lập), Đại học Doshisa (của Niijima Jo lập năm 1875), Đại học Waseda (do Okuma Shigenobu lập năm 1882) đã có công đào tạo các chuyên gia kỹ thuật và quản lý cho các công ty tư nhân, và đóng góp một phần lớn vào sự nghiệp công nghiệp hóa của Nhật.

Giai đoạn 3: Hậu chiến và phát triển.
dai hoc nhat banTrong thời gian chiến tranh, Nhật đã làm được một điều kỳ diệu: phát triển đại học và kỹ nghệ. Cuộc chiến Nga - Nhật (1904-1905) là giai đoạn Nhật “củng cố lực lượng” để xây dựng và bành trướng thực lực quân sự. Đến thế chiến 1914-1918 thì thực lực quân sự của Nhật đã được chứng minh.

Thế chiến thứ nhất là động cơ để Nhật tiến hành một cuộc cách mạng kỹ nghệ thứ hai. Trong cuộc cách mạng này, Nhật tập trung vào kỹ nghệ nặng như đóng tàu, sản xuất sắt thép, sản xuất máy kỹ nghệ, hóa học… Trong thời gian 1915-1918, sản lượng kỹ nghệ của Nhật tăng sáu lần, và lần đầu tiên, sản lượng kỹ nghệ qua mặt sản lượng nông nghiệp, biến Nhật thành một nước công nghiệp tiên tiến.

Năm 1918 đạo luật thành lập các đại học địa phương và đại học vùng ra đời. Đạo luật còn cho phép thành lập các đại học chuyên ngành như đại học chuyên về kỹ thuật, kinh tế, nông học…

Đến năm 1930, Nhật đã có bảy đại học vương triều, với ba đại học mới là Hokkaido, Osaka và Nagoya. Các đại học vương triều mới này chuyên về khoa học và công nghệ. Trong cùng thời gian này, các đại học cũ hơn như Tokyo và Kyoto bắt đầu thành lập các viện nghiên cứu trong và ngoài đại học. Phần lớn các viện nghiên cứu tập trung vào nghiên cứu về vật lý, hóa học, công nghệ hàng không. Trong giai đoạn này, Nhật đã có một hệ thống đại học hoàn chỉnh và tạo được một nền tảng cho phát triển khoa học kỹ thuật trong tương lai.

Giai đoạn 4: Hoàn thiện.
dai hoc nhat banGiai đoạn phát triển thứ tư này kéo dài từ Thế chiến thứ hai cho đến nay. Trong giai đoạn đầu sau khi Nhật đầu hàng, tương lai nước Nhật nằm trong tay của lực lượng chiếm đóng, và tương lai đất nước còn khá mập mờ. Năm 1949, chính quyền chiếm đóng đề nghị một cuộc tổng cải cách giáo dục trên toàn quốc. Theo đó, tất cả các đại học - từ hệ thống đại học vương triều đến đại học địa phương và tư thục - đều phải theo một chương trình đào tạo thống nhất: đó là bốn năm cho cấp cử nhân. Đến năm 1950, Nhật đã có 201 trường đại học, cao đẳng và viện nghiên cứu.

Đến năm 1952, khi Nhật được trao quyền tự trị, tương lai của Nhật có vẻ rõ ràng hơn. Người Nhật nhận thức rõ rằng để tồn tại trên thế giới với sự hạn chế tài nguyên thiên nhiên, Nhật tùy thuộc rất lớn vào khả năng kỹ nghệ. Để phát triển kỹ nghệ, họ cần phải phát triển hệ thống giáo dục đại học đến một tầm cao hơn. Năm 1956, một tài liệu về giáo dục cao đẳng của Anh (White Paper on Technical Education) được dịch sang tiếng Nhật, và trở thành một tài liệu tham khảo quan trọng, một kim chỉ nam cho hệ thống giáo dục đại học của Nhật sau này.

Năm 1956, Cục Khoa học và Công nghệ được thành lập, và năm 1960 Hội đồng Khoa học và Công nghệ đề xuất một số chính sách để phát triển khoa học và công nghệ trong vòng 10 năm. Những đề nghị này trở thành định hướng phát triển và hoàn thiện hệ thống đại học cho đến ngày nay.

Ngày nay, Nhật có hơn 725 trường đại học và 518 trường cao đẳng. Chất lượng đào tạo đại học của Nhật được thế giới công nhận. Hiện nay, Nhật có 11 trường đại học được xếp vào hạng “top 200” trên thế giới, với Đại học Tokyo (hạng 19) và Kyoto (hạng 25). Trong thời gian 1997-2001, các nhà khoa học Nhật công bố khoảng 336,858 bài báo khoa học, chiếm 9,3% tổng số bài báo khoa học trên thế giới. Số ấn phẩm khoa học của Nhật đứng vào hàng thứ tư trên thế giới, chỉ sau Mỹ, Liên hiệp châu Âu, Anh và Đức
hoc dai hoc nhat ban, hoc dai hoc o nhat, hoc dai hoc o nhat ban, học đại học ở nhật, học đại học ở nhật bản, hoc dai hoc tai nhat, học đại học tại nhật, học đại học tại nhật bản, Dai hoc nhat, dai hoc nhat ban, đại học nhật, đại học nhật bản, đại học ở nhật, dai hoc o nhat, đại học ở nhật bản, dai hoc tai nhat, đại học tại nhật, đại học tại nhât bản, dai hoc o nhat ban, dai hoc tai nhat ban

Du học sinh tại Nhật bản đón lễ trọng đại


dai hoc nhat ban, đại học nhật, dai hoc nhat, đại học tại nhật, dai hoc tai nhat, đại học tại nhật bản, dai hoc tai nhat ban, Du hoc sinh, du học sinh, du học ở nhật, du hoc sinh o nhat, du học sinh ở nhật bản, du hoc sinh o nhat ban, le nhat ban, lễ nhật bản, lễ ở nhật, le o nhat, lễ ở nhật bản, le o nhat ban, du hoc, du học, du học nhật, du học nhật bản, du hoc nhat, 
Ngày lễ quan trọng nhất của học sinh và sinh viên tại Nhật bản
du học sinh ở nhậtNhật bản đã tạo ra rất nhiều điều kỳ vọng cho các bạn muốn đang học tập và làm việc tại Nhật, kéo theo sự khuyến kích học tập trao đổi giao lưu văn hóa giữa các quốc gia, điều này khiến số lượng sinh viên quốc tế gia nhập vào Nhật bản ngày một tăng.
Du học là một quá trình chuẩn bị thật kỹ cho chuyến đi, thế nhưng nhiều sinh viên khi đăng ký đi du học Nhật bản vì đã chọn sai nhà tư vấn, nơi đăng ký tham gia nên vẫn ấp ủ với ước mơ du học Nhật bản còn rất xa vời.
Sau đây chúng tôi xin giới thiệu đến các bạn, những hình ảnh của du học sinh Công Ty Hiền Quang tại Nhật bắt đầu đón nhận lễ khai giản năm học mới và lễ tốt nghiệp cho các thi sinh tại Nhật.  
Lễ Khai giảng:
Các trường học ở Nhật bản, từ cấp tiểu học tới đại học, tổ chức lễ tốt nghiệp vào tháng Ba và lễ khai giảng vào tháng 4, thế nhưng đối với du học sinh học tại các khóa học của trường tiếng thì có thể nhập học vào 4 kỳ gồm: tháng 1, 4, 7 và tháng 10 của năm.
du học sinh ở nhật
Hình ảnh thầy trò năm học mới
du học sinh ở nhật
Hình ảnh du học sinh Việt Nam, công ty Hiền Quang chúc các bạn học tốt
Lễ tốt nghiệp: Một sự kiện trọng đại!
Đối với cả học sinh và phụ huynh, lễ tốt nghiệp và lễ nhập học thường chan chứa những kỷ niệm. Nước mắt lưu luyến cứ tuôn rơi trên gương mặt của những học sinh tốt nghiệp, nay phải nói lời từ biệt với thầy cô và bè bạn.
du học sinh ở nhật
Hình ảnh nhận bằng trong buổi lễ tốt nghiệp
du học sinh ở nhật
Du học sinh Việt vui sướng trong ngày nhận bằng và chia tay bạn bè
Lễ tốt nghiệp được tổ chức vào cuối tháng Ba, thường ở sân trường hoặc hội trường, với sự tham gia của tất học sinh và giáo viên. Lễ tốt nghiệp là một sự kiện có phần buồn bã với diễn văn chúc mừng của lãnh đạo nhà trường hoặc khách mời danh dự, nghi thức trao bằng khen, lời chào tạm biệt của đại diện học sinh tốt nghiệp, và lời cảm ơn cũng như chúc may mắn gửi đến những anh chị tốt nghiệp của những học sinh khóa dưới. Và bài hát chia tay sẽ vang lên, những gương mặt đẫm nước mắt tràn ngập khán phòng.
 dai hoc tai nhat, đại học tại nhật bản, dai hoc tai nhat ban, Du hoc sinh, du học sinh, du học ở nhật, du hoc sinh o nhat, du học sinh ở nhật bản, du hoc sinh o nhat ban, le nhat ban, lễ nhật bản, lễ ở nhật, le o nhat, lễ ở nhật bản, le o nhat ban, du hoc, du học, du học nhật, du học nhật bản, du hoc nhat, du hoc nhat ban, du hoc o nhat, du hoc o nhat ban, du học ở nhật,